BỆNH NẤM PHỔI Ở GIA CẦM

Đăng ngày:

BỆNH NẤM PHỔI Ở GIA CẦM

                                                                                                  PGS.TS Phạm Ngọc Thạch

                                                                                              Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam

Bệnh nấm phổi ở gia cầm là một bệnh truyền nhiễm xảy ra ở các loài gia cầm và chim, biểu hiện đặc trưng của bệnh là hình thành những khối u nấm màu vàng xám ở phổi, hình thành các túi hơi, từ đó làm cho vật nuôi rối loạn hô hấp và chết với tỷ lệ cao.

Trong tất cả các loài gia cầm thì vịt và ngỗng là giống dễ mắc bệnh nhất rồi đến gà tây và ít hơn là gà và gà sao. Bệnh sảy ra trên tất cả các lứa tuổi, nhưng mẫn cảm nhất là gia cầm non 1 – 3 tuần tuổi, gia cầm trưởng thành thường mắc bệnh ở thể mãn tính.

  1. Nguyên nhân

Bệnh do nấm Aspergillus fumigatus gây ra. Ở không khí các bào tử nấm xâm nhập vào phổi và túi khí của gia cầm qua bụi hít vào từ mũi, khí quản, khi sức đề kháng giảm thì bệnh nặng lên. Bệnh lan truyền từ trong máy ấp do trứng nhiễm nấm, hoặc máy ấp bẩn, từ chất độn chuồng, thức ăn nhiều nấm.

  1. Đường truyền lây

Chủ yếu qua đường hô hấp, bào tử được phát tán khắp nơi chủ yếu từ chất độn chuồng ổ rơm, từ thức ăn bị nhiễm nấm, từ nền chuồng,…gia cầm hít phải các bào tử này và bị nhiễm bệnh
Gia cầm nuôi nhốt theo phương pháp chăn nuôi công nghiệp thì bệnh thường nặng hơn nuôi chăn thả. Ngoài ra bệnh còn có thể lây qua đường tiêu hoá.

III. Triệu chứng

Thời gian nung bệnh là 3-10 ngày. Thể cấp thường thấy ở gà con từ 1-3 tuần tuổi, tỷ lệ chết khoảng từ 50-80%. Thể mãn thường thấy ở gà lớn, tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết thấp.

Khi gia cầm mắc bệnh có biểu hiện ủ rũ, kém ăn, khó thở, ho, phải ngồi để thở, đặc biệt không nghe tiếng khò khè, chảy nước mũi như ở một số bệnh đường hô hấp khác (IB, LTI, CRD,…). Gà lờ đờ, chân khô, cơ thể gầy. Trong chăn nuôi tập trung, bệnh thường lây lan đồng loạt và gà chết ngay sau 1-2 ngày ở gia cầm non từ 1 đến 2 tuần tuổi. Thể bệnh mãn tính thường thấy ở gia cầm trưởng thành, viêm đường hô hấp điển hình kéo dài. Gia cầm chết do gầy rạc và suy hô hấp.

  1. Bệnh tích

Có những u nấm to nhỏ màu trắng hay vàng xám ở trên phổi và thành túi khí, khi tách u nấm ra rất dễ dàng. U nấm chia làm hai thể:

– U hạt có giới hạn rõ ràng, nổi rõ trên bề mặt tổ chức, thường thấy ở thể cấp (Phổi viêm có thể có những vùng gan hoá, phù và tụ máu đỏ, thỉnh thoảng có những đám hoại tử, niêm mạc khí quản xung huyết có nhiều dịch nhờn).

– U lan tràn thì không thể đếm được, u không có giới hạn, mọc khắp các tổ chức, thường gặp ở thể mãn tính (Thành túi khí dày, xoang túi khí hẹp chứa nhiều mũ và fibrin, ngoài ra còn có những hạt nấm mọc ở gan, lách, tim, phúc mạc, màng treo ruột. Niêm mạc dạ dày và ruột viêm đỏ).

  1. Chẩn đoán bệnh: Trên lâm sang cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau đây:

– Bệnh Viêm phế quản truyền nhiễm (IB), bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm (ILT): hai bệnh này tiếng thở của bệnh viêm phế quản (IB) và bệnh viêm thanh khí quản (ILT) là gà thở khó và có tiếng ồn, có tiếng khò khè và tiếng ọt.

– Nấm phổi thở khó nhưng không có tiếng động.

– Bệnh thương hàn: phổi có nốt trắng nhưng đó là nốt hoại tử, ngoài ra còn hoại tử ở gan và lách

  1. Điều trị bệnh

Tìm và cắt đứt nguồn bệnh, nếu nấm trong chất độn chuồng thì phải thay ngay chất độn chuồng mới, khô, sạch, không nấm mốc. Loại những con gia cầm mắc bệnh nặng vì điều trị không hiệu quả. Chọn riêng những con có biểu hiện khó thở ra 1 ô để điều trị tích cực và chăm sóc riêng sẽ tốt hơn.

Dùng 1 trong các loại thuốc sau để điều trị cho gia cầm mắc bệnh: Nistatin, Mycostatin, AmphotericinB, ngoài ra còn có thể dùng các hoá chất diệt nấm như Rystanviolet, sulfat đồng,  Dùng 5-7 ngày liên tục tùy mức độ của bệnh (nên cân gia cầm để tính liều lượng thuốc cho chính xác). Kết hợp bổ sung vitamin, thuốc trợ sức, trợ lực cho gia cầm.

VII. Phòng Bệnh

Ngoài vấn đề dinh dưỡng như  cung cấp  thức ăn tốt, đầy đủ dinh dưỡng cho gia cầm, chúng ta cần chú ý đến các vấn đề về vệ sinh thú y như: Sát trùng chuồng trại, các chất độn chuồng phải được xử lý bằng hoá chất, sát  trùng trước khi đưa vào trại.

Thay ổ rơm hay chất độn chuồng thường xuyên, chuồng phải khô ráo, không ẩm ướt, thức ăn không dùng thức ăn cũ, lâu ngày

Không ấp trứng của những gà bệnh, trước khi ấp trứng, máy ấp phải được xông bằng Formol và thuốc tím theo tỉ lệ 2:1 hoặc có thể xịt bằng các thuốc sát trùng như Thiabenidazole